Xích Quỷ – Tên nước đầu tiên của người Việt mang ý nghĩa gì

Tên nước Việt cổ từ 5.000 năm trước, rộng lớn gấp 10 lần ngày nay, lại tập hợp đủ các thị tộc người Việt (Bách Việt) hẳn phải mang theo bản sắc văn hóa dân tộc. Bài đồng dao ai cũng biết được lưu truyền đến tận ngày này cũng nhắc lại cội nguồn xưa kia của dân tộc.

Theo Lĩnh Nam Chích Quái thì ông nội của Lạc Long Quân là Đế Minh (cháu 3 đời của Thần Nông) sinh ra con cả là Đế Nghi. Khi Đế Minh đi tuần thú phương nam thì gặp và cưới con gái bà Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục. Ngay từ tấm bé Lộc Tục đã thể hiện rất thông minh và đoan chính.

Đế Minh rất ngạc nhiên trước tư chất thông minh và tài trí của Lộc Tục nên muốn chọn làm người nối ngôi, thế nhưng Lộc Tục lại muốn nhường ngôi cho anh mình là Đế Nghi.

Cuối cùng Đế Minh quyết định truyền ngôi cho con trưởng Đế Nghi làm vua phương bắc, và cho Lộc Tục làm vua phương nam, lấy sông Dương Tử làm giới tuyến “Trước đất trời nguyện rằng: Nam, Bắc cương thổ có khác. Nam không xâm Bắc. Bắc không chiếm Nam. Kẻ nào phạm lời nguyền thì chết dưới đao thương”.

Lộc Tục khi lên ngôi Vua lấy hiệu là Kinh Dương Vương, năm 2879 trước công nguyên đặt quốc hiệu là Xích Quỷ, đất nước rộng lớn gồm tất cả các thị tộc người Việt (Bách Việt)

Xích Quỷ là quốc hiệu đầu tiên của người Việt có diện tất rất rộng lớn, phía bắc giáp Động Đình Hồ vĩ tuyến 29 Bắc, phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành sau này) vĩ tuyến 11 Nam, phía Tây giáp Ba Thục (tỉnh Tứ Xuyên) kinh tuyến 105 Đông, phía Đông giáp bể Nam Hải, kinh tuyến 118 Đông. Tổng cộng diện tích của Xích Quỷ khoảng 2.900.000 km2

Trong khi đó diện tích Việt Nam bây giờ là 331.698 km2 (tính cả diện tích trên biển), tức chỉ bằng khoảng 1/10 so với Xích Quỷ trước kia.

Nước Xích Quỷ được tô màu có diện tích gấp 10 lần nước Việt ngày nay.

Bản đồ phân bố các thị tộc người Việt xưa kia


Ý nghĩa của quốc hiệu Xích Quỷ

Là quốc hiệu đầu tiên của người Việt, vậy Xích Quỷ mang ý nghĩa gì?

Có các cuộc nghiên cứu cùng các lý giải khác nhau về tên Xích Qủy, theo giải thích trên wiki thì “Xích” nghĩa là đỏ, như vậy Xích Quỷ là quỷ đỏ, ám chỉ trang phục ngày xưa màu đỏ, trên người lại mang hình xăm, về sau người Xích Quỷ gọi là người Việt.

Cũng có nghiên cứu cho rằng “Xích” là đỏ tức ở phương nam (theo kinh dịch thì phương nam có khi hậu nóng mang hành hỏa có màu đỏ), còn “Quỷ” là tên một ngôi sao ở phương nam trong nhị thập bát tú.

Tuy nhiên trong cuốn “Ngọc Phả truyền thư” của  từ đường họ Nguyễn có giải thích rằng chữ “Xích” là màu đỏ ngụ ý phương nam, từ “Qủy” là từ chữ Vương của người Việt cổ, 3 chữ Vương ghép lại thành chữ “Quỷ”. Vậy ba Vương cu thể là những ai?


Chữ “Quỷ”do ba chữ Vương ghép thành

Đế Thừa là cháu hai đời của Thần Nông (Viêm Đế) có 3 con trai:

  • Con trưởng là Nguyễn Minh Khiết (tức Đế Minh) làm Đế phương nam
  • Nguyễn Nghi Nhân là Đế phương bắc
  • Nguyễn Long Cảnh, còn gọi là Lý Lang Công (tên khác là Ba Công, Long Đại Vương)

Ba người con của Đế Thừa đều làm Vương ở 3 phương. Theo “Ngọc Phả truyền thư” thì Kinh Dương Dương là con trai của Đế Minh (tức Đế vùng phương nam) thấy ba Vương đều là Đế ở ba nơi, nên ghép ba chữ “Vương” này tạo thành chữ “Quỷ”. Tên “Xích Quỷ” nêu rõ Vương ở phương nam, ngụ ý nước nam đã có chủ.

Vua Kinh Dương Vương.

Có thể tìm thấy “ba Vương” từ bài đồng dao cổ xưa mà đến nay người Việt hầu như ai cũng biết:

“Chi chi chành chành

Cái đanh thổi lửa

Con ngựa chết trương

Ba vương ngũ đế

Chấp chế đi tìm

Ú tim bắt được

Ù à ù ập!”

“Chi chi” là chi nọ nối tiếp chi kia trong một họ tộc; “chành chành” nghĩa là không có chi kế tiếp thì phải ‘chành’ sang họ trực hệ hoặc đồng tông.

“Cái đanh thổi lửa” là nói về ông Toại Nhân, đây là ông tổ tạo ra lửa giúp, tạo ra văn minh giúp con người nấu chín thức ăn, không phải ăn thịt sống như loài cầm thú. Sau này vua Phục Hy là người kế nhiệm ông. Dẫu là “chi chi chành chành” nào thì cũng có chung một tổ là từ ông Toại Nhân, câu này nhắc nhở con cháu nhớ về cội nguồn.

“Con ngựa chết trương” chỉ Hiên Diên Hoàng Đế vì để thống nhất thiên hạ đã tiến hành các cuộc chinh phạt, nhiều người đồng ý theo Hoàng Đế, những ai không theo thì bị chinh phạt gây ra cuộc chiến đẫm máu, thể hiện qua hình tượng “con ngựa chết trương” chỉ rất nhiều kỵ binh tử trận trong cuộc chinh phạt.

“Ba Vương ngũ Đế”:  “Ba Vương” là ba người con trai của Đế Thừa, cháu hai đời của Thần Nông như đã nêu ở trên; “ngũ đế” là Phục Hy, Thần Nông, Viêm Đế, Hiên Diên Hoàng Đế, Đế Thức.

“Chấp chế đi tìm” ba Vương ngũ Đế đều đi tìm thể chế nhằm xây dựng cơ đồ bền vững.

“Ú tim bắt được” câu này liên quan đến câu “chi chi chành chành chành” ở trên, ngụ ý liên kết các chi họ lại xây dựng lại thành một nước.

“Ù à ù ập” là câu tán thán ngỏ ý vui mừng.

– Sưu tầm –


Truyện mình sưu tầm được thêm:

“Đế Minh cháu ba đời họ Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi, sau nhân đi tuần về phía Nam đến núi Ngũ Lĩnh lấy được con gái bà Vụ Tiên rồi trở về, sinh ra Lộc Tục. Tục dung mạo đoan chính, thông minh phúc hậu, Đế Minh rất lấy làm lạ, muốn cho nối ngôi mình. Lộc Tục cố từ, xin nhường cho anh. Đế Minh liền lập Nghi làm kẻ nối ngôi. Lại phong Lộc Tục là Kinh Dương Vương để trị đất Nam, lấy hiệu nước là Xích Quá. Kinh Dương Vương có tài đi dưới Thủy Phủ, lấy con gái Long Vương ở hồ Động Đình, sinh ra Sùng Lãm hiệu là Lạc Long Quân, cho nối ngôi trị nước. Kinh Dương Vương không biết đi đâu mất.
Lạc Long Quân dạy dân việc cày cấy nông tang, đặt ra các đẳng quân, thần, tôn, ti, các đạo cha con, vợ chồng, đôi khi trở về Thủy Phủ mà trăm họ vẫn yên vui vô sự, không biết do đâu được thế. Hễ dân có việc lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng: “Bố ơi! sao không lại cứu chúng tôi”. Long Quân tới ngay, sự linh hiển của Long Quân, người đời không ai lường nổi.
Đế Nghi truyền ngôi cho con là Đế Lai, cai trị Bắc phương. Nhân khi thiên hạ vô sự bèn sai quần thần là bọn Xuy Vưu thay mình trông coi quốc sự rồi đi tuần xuống nước Xích Quỷ ở phía Nam. Khi đó, Long Quân đã về Thủy Phủ, trong nước không có chúa. Đế Lai bèn để ái nữ là âu Cơ và các thị tỳ ở lại nơi hành tại rồi đi chu du thiên hạ, ngắm các nơi danh lam thắng cảnh. Thấy hoa kỳ cỏ lạ, trân cầm dị thú, ngọc ngà vàng bạc… các thứ đá quý, các cây trầm, đàn cùng các sơn hào hải vật không thiếu thứ gì, khí hậu bốn mùa không lạnh không nóng, Đế Lai rất ái mộ, vui quên trở về. Dân phương Nam khổ vì bị người Bắc phương quấy nhiễu, không được yên sống như xưa mới cùng gọi Long Quân rằng: “Bố ơi ở đâu mà để cho dân Bắc xâm nhiễu phương dân”.
Long Quân đột nhiên trở về, thấy Âu Cơ có dung mạo đẹp đẽ kỳ lạ, trong lòng vui mừng, bèn hóa thành một trang thiếu niên phong tư tú lệ, tả hữu kẻ hầu người hạ đông đúc, vừa đi vừa ca hát đánh trống. Cung điện tự nhiên dựng lên. Âu Cơ vui lòng theo Long Quân. Long Quân giấu Âu Cơ ở Long Đài.
Đế Lai trở về, không thấy Âu Cơ, sai quần thần đi tìm khắp thiên hạ. Long Quân có phép thần thông biến hóa thành trăm hình vạn trạng yêu tinh, quỷ sứ, rồng, rắn, hổ, voi… làm cho bọn đi tìm đều sợ hãi không dám sục sạo, Đế Lai bèn phải trở về. Truyền ngôi đến đời Du Võng, thì Xuy Vưu làm loạn. Vua nước Hữu Hùng là Hiên Viên đem chư hầu tới đánh nhưng không được. Xuy Vưu mình thú mà nói tiếng người, có sức khỏe dũng mãnh. Có người dạy Hiên Viên dùng trống da thú làm lệnh, Xuy Vưu sợ hãi chạy về đất Trác Lộc. Đế Du Võng xâm lăng chư hầu, cùng Hiên Viên giao binh ở Phản Tuyền đánh ba trận đều bị thua, bị giáng phong ở đất lạc ấp rồi chết ở đó. Giòng họ Thần Nông tới đây thì hết. Long Quân lấy âu Cơ rồi đẻ ra một bọc, cho là điềm bất thường, vứt ra cánh đồng; qua sáu bảy ngày, bọc vỡ ra một trăm quả trứng, mỗi trứng nở ra một con trai, mới đem về nhà nuôi. Không phải bú mớm, các con tự lớn lên, trông đẹp đẽ kỳ dị, người nào cũng trí dũng song toàn, người người đều kính trọng cho là triệu phi thường. Long Quân ở lâu dưới Thủy Quốc vợ con thường muốn về đất Bắc.
Về tới biên giới, Hoàng Đế nghe nói rất sợ hãi cho binh ra giữ cửa ải, mẹ con Âu Cơ không thể về được bèn quay về nước Nam mà gọi Long Quân rằng: “Bố ở nơi nào mà để mẹ con tôi cô độc, ngày đêm buồn khổ thế này”. Long Quân bỗng trở về, gặp nhau ở đất Tương. Âu Cơ nói: “Thiếp vốn là người nước Bắc, ở với vua, sinh hạ được trăm con trai, vua bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi con, làm người vô phu vô phụ, chỉ biết thương mình”. Long Quân nói: “Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc, giòng giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được, nay phải chia lá. Ta đem năm mươi con về Thủy Phủ chia trị các xứ, năm mươi con theo nàng về ở trên đất, chia nước mà trị. Lên núi, xuống bể, hữu sự báo cho nhau biết, đừng quên”. Trăm con vâng theo, sau đó từ biệt mà đi.
Âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang, đông giáp Nam Hải, tây tới Ba Thục, bắc tới Động Đình hồ, nam tới nước Hồ Tôn (nay là Chiêm Thành). Chia nước làm 15 bộ (còn gọi là quận) là Việt Thường, Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Chân Định, Văn Lang, Quế Lâm, Tượng Quận. Chia các em ra cai trị, lại đặt các em làm tướng văn tướng võ, văn là lạc hầu, võ là lạc tướng. Con trai vua gọi là quan lang, con gái vua gọi là mỵ nương, trăm quan gọi là bồ chính, thần bộc, nữ lệ gọi là xảo xứng (còn gọi là nô tỳ). Bề tôi gọi là hồn, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo. Vua đời đời thế tập gọi là Hùng Vương, không hề thay đổi.
Lúc ấy, dân sống ở ven rừng, xuống nước đánh cá thường bị giống giao long làm hại, bèn nói với vua. Đáp: “Giống sơn man và giống thủy tộc có thù với nhau, thường ghét nhau cho nên hại nhau đó”. Khiến người đời lấy mực xăm vào mình theo hình Long Quân, theo dạng thủy quái. Từ đó, dân không bị tai họa giao long làm hại nữa. Tục xăm mình của dân Bách Việt cũng bắt đầu từ đấy. Hồi quốc sơ, dân không đủ đồ dùng, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ gianh làm chiếu, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang, cây tung lư làm cơm (có chỗ viết là uống), lấy cầm thú, cá, ba ba làm mắm, lấy rễ gừng làm muối, cầy bằng dao, trồng bằng lửa. Đất sản xuất được nhiều gạo nếp, lấy ống tre mà thổi cơm. Bắc gỗ làm nhà để tránh hổ sói. Cắt tóc ngắn để dễ đi lại trong rừng rú. Đẻ con ra lấy lá chuối lót cho nằm, có người chết thì giã cối làm lệnh, người lân cận nghe tiếng đến cứu. Chưa có trầu cau, việc hôn thú giữa nam nữ lấy gói đất làm đầu, sau đó mới giết trâu dê làm đồ lễ, lấy cơm nếp để nhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân.
Đó trăm người con trai chính là tổ tiên của người Bách Việt vậy.
Đại Việt Sử kí Toàn thư – Kỷ Hồng Bàng thị chép rằng:
“Thời Hoàng Đế dựng muôn nước, cho Giao Chỉ ở về phía Tây Nam, ở xa ngoài đất Bách Việt, Vua Nghiêu sai Hy thị đến Nam Giao, để định đất Giao Chỉ ở phương Nam. Vua Vũ chia chín châu thì đất Bách Việt thuộc về khu Châu Dương, Giao Chỉ thuộc về đấy. Thời Thành Chu mới gọi là Việt Thường thị, tên Việt bắt đầu từ đấy.
Trong buổi trời đất mới mở mang, có người do khỉ mà hoá ra, như họ Bàn Cổ, có người do khỉ hoá ra rồi sau mới có hình, đều là hai khi âm và dương cả. Kinh Dịch nói: “Khí trời đất giao hợp với nhau mà hoá muôn vật, đực cái hợp tình với nhau mà sinh muôn vật”. cho nên có vợ chồng rồi sau mới có cha con, có cha con rồi sau mới có vua tôi. Nhưng thánh hiền sinh ra, tất khắc có thưởng, đó là do mệnh trời mà sinh, như nuốt trứng chim huyền điểu mà sinh ra nhà Thương, giẫm vết chân người lớn mà dựng nên nhà Chu, đều là ghi chép sự thực như thế. Con cháu vua Thần Nông là Đế Minh, lấy con gái Vụ Tiên mà sinh Kinh Dương Vương, tức là thuỷ tổ của Bách Việt. Kinh Dương Vương lấy con gái Thần Long mà sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai mà sinh trăm con trai. Chẳng phải cơ nghiệp của nước Việt ta là gây nên như thế…”

Cùng bộ sưu tập

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận